Nguyên nhân gây bệnh áp xe não có nhiều nhưng thường gặp nhất là vi khuẩn sinh mủ (Bacteroides, liên cầu, tụ cầu, Enterobacteriace), ít gặp hơn là nấm (Aspergillus), kí sinh trùng (Toxoplasma gondii).
Con đường hình thành áp xe não là từ những ổ nhiễm trùng kế cận sọ não (viêm tai xương chũm, viêm xoang, viêm mủ dưới màng cứng, viêm màng não); từ vết thương, vết mổ sọ não; từ đường máu mang mầm bệnh tới mô não (trong viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn, bệnh tim bẩm sinh có shunt phải sang trái, tiêm chích ma túy...), nhiều trường hợp không rõ nguyên nhân.
Yếu tố nguy cơ dễ mắc bệnh áp xe não là suy giảm miễn dịch (lớn tuổi, bệnh nền đái tháo đường, xơ gan, lạm dụng corticoid, bệnh tim bẩm sinh, ung thư, mắc HIV); tiêm chích ma túy; vết thương sọ não hở hoặc có phẫu thuật sọ não; viêm nhiễm vùng tai mũi họng tái diễn...
Áp xe não là bệnh xảy ra bán cấp, nhưng diễn tiến đôi khi mãn tính, một vài bệnh nhân có diễn tiến lâm sàng như một u não. Khởi đầu bệnh thường biểu hiện bệnh lý trước đó như nhiễm trùng vùng mặt nhất là các xoang, viêm tai giữa, viêm phổi, hoặc nhiễm trùng huyết. Những trường hợp bệnh phát hiện muộn hơn thì bệnh cảnh trước đó có thể bị bỏ quên hay không thật rõ ràng. Đặc điểm chung của áp xe não gồm ba nhóm triệu chứng chính:
Một ổ áp xe có thể có 3 đường vào. Một là lan trực tiếp từ ổ nhiễm trùng trong sọ não như viêm tai giữa, viêm xoang hàm, viêm mũi xoang. Hai là từ chấn thương đầu hay trong phẫu thuật sọ não. Ba là qua đường máu. Tuy nhiên có đến 25% áp xe không rõ ổ nguyên phát.
Một số áp xe não có liên quan đến việc vệ sinh răng miệng kém hoặc nhiễm trùng xoang phức tạp. Do đó, nên dùng chỉ nha khoa hàng ngày, đánh răng đúng cách và đến nha sĩ thường xuyên. Trong trường hợp người bệnh bị viêm xoang, bác sĩ sẽ điều trị nhiễm trùng xoang bằng thuốc thông mũi. Nếu các triệu chứng của nhiễm trùng xoang hoặc răng vẫn tiếp diễn, người bệnh có thể phải dùng kháng sinh.
Những người nhiễm HIV không được điều trị cũng có nguy cơ cao bị áp xe não. Do đó, cần chủ động phòng tránh HIV bằng cách quan hệ tình dục an toàn… Người bị nhiễm HIV dùng thuốc kháng virus thường xuyên sẽ làm giảm đáng kể khả năng phát triển áp xe não.
Tùy từng người bệnh cụ thể mà các bác sĩ sẽ chỉ định cho phù hợp.
Điều trị nội khoa: kháng sinh (hoặc thuốc kháng nấm, kí sinh trùng), thời gian điều trị kéo dài 4-8 tuần, điều trị hỗ trợ: chống phù não, chống co giật, chống viêm, giảm đau hạ sốt, cân bằng dịch, dinh dưỡng, điện giải.
Can thiệp nếu có chỉ định: Người bệnh hôn mê, co giật, ứ đọng đường thở cần được thở máy qua nội khí quản bảo vệ đường thở, đặt đường truyền tĩnh mạch trung tâm duy trì an thần giảm đau đường tĩnh mạch, phẫu thuật dẫn lưu ổ áp xe.
Phẫu thuật điều trị bệnh áp xe não bao gồm: Chọc hút ổ áp xe: áp dụng khi ổ áp xe ở sâu bên trong tổ chức não, có nhiều ngăn, tình trạng của người bệnh đã trở nặng. Phương pháp này thường không triệt để và dễ tái phát; Dẫn lưu ổ áp xe: áp dụng khi ổ áp xe ở ngoài màng cứng, dưới màng cứng với kích thước lớn; Loại bỏ hoàn toàn ổ áp xe: áp dụng trong trường hợp bọc áp xe có bao xơ chắc nằm sâu bên trong não, vết thương hỏa khí gây ra áp xe não, có thể có mảnh xương hoặc dị vật khác trong ổ áp xe. Đây là phương pháp điều trị triệt để nhưng lại gây nhiều tổn thương cho tổ chức não lành và có nguy cơ gây thủng vỡ bọc áp xe.
Thái Thuý (theo Báo SK&ĐS)
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn