Ở thực quản cũng có 2 loại biểu mô: biểu mô vảy và biểu mô tuyến. Thông thường, ung thư thực quản ở phần trên và giữa sẽ thường gặp ung thư biểu mô vảy (chiếm đến 90% các trường hợp), còn ung thư thực quản phần dưới thường gặp ung thư biểu mô tuyến.
Hiện chưa rõ nguyên nhân gây ung thư thực quản, tuy nhiên có một số yếu tố làm tăng nguy cơ mắc bệnh như:
Ung thư thực quản có thể phát hiện sớm thông qua nội soi.
Ở giai đoạn đầu, ung thư thực quản chưa có biểu hiện rõ ràng. Lúc này, thường sẽ xuất hiện các tổn thương hoặc biến đổi nhỏ trên bề mặt thực quản đồng thời chưa gây ra ảnh hưởng rối loạn chức năng cơ thể hoặc bất thường về máu. Tuy nhiên người bệnh có thể phát hiện sớm ung thư thực quản thông qua nội soi đường tiêu hóa. Ung thư thực quản ở mỗi giai đoạn sẽ có những biểu hiện khác nhau.
Dưới đây là một số dấu hiệu có thể gặp khi mắc ung thư thực quản:
Tuy nhiên những biểu hiện trên có thể là dấu hiệu của nhiều bệnh lý khác ở đường tiêu hóa như trào ngược dạ dày.
Việc chẩn đoán ung thư thực quản cần dựa vào chẩn đoán hình ảnh cùng các xét nghiệm lâm sàng khác. Người bệnh sẽ được nội soi, siêu âm, sinh thiết để phát hiện ra những bất thường hay tổn thương ở thực quản.
Ung thư thực quản không phải bệnh lý truyền nhiễm nên không thể lây từ người này qua người khác. Ung thư thực quản cũng không có yếu tố di truyền nhưng nếu tiền sử gia đình có người mắc ung thư thực quản bạn nên tầm soát sớm.
Ung thư thực quản có nhiều triệu chứng phức tạp, ở giai đoạn đầu bệnh không có biểu hiện rõ ràng.
Không có cách nào để phòng ngừa hoàn toàn ung thư thực quản. Thay vào đó chúng ta nên giảm các yếu tố nguy cơ bằng cách:
Ung thư thực quản có thể phát hiện sớm thông qua thăm khám sức khỏe, nội soi đường tiêu hóa. Do vậy việc tầm soát ung thư rất quan trọng để phòng ngừa và phát hiện sớm nhất là với những bệnh nhân có tiền sử viêm thực quản, ung thư vùng họng miệng…
Phát hiện ung thư thực quản sớm thông qua nội soi.
Ung thư thực quản có thể phát hiện sớm thông qua nội soi. Nếu được phát hiện sớm, hiệu quả điều trị của bệnh sẽ tăng lên. Tuy nhiên người bệnh thường phát hiện bệnh khi đã ở giai đoạn muộn. Tại Việt Nam, chưa đến 2% số người bệnh được chẩn đoán ung thư thực quản giai đoạn sớm.
Khi bệnh ung thư thực quản tiến triển đến giai đoạn muộn, không những việc điều trị khó khăn mà tỷ lệ sống sau 5 năm chỉ đạt khoảng 5%. Tùy vào giai đoạn bệnh, thể trạng người bệnh và đáp ứng với điều trị các bác sĩ sẽ lựa chọn phương án cụ thể như:
Phẫu thuật: Người bệnh sẽ được phẫu thuật cắt thực quản, vét hạch và tạo hình. Một số trường hợp không thể ăn uống sẽ được phẫu thuật mở thông dạ dày. Tuy nhiên phẫu thuật thực quản phức tạp và hậu phẫu nặng nề, bệnh nhân thường đau rất lâu, có thể nhiều biến chứng như rò trung thất…
Xạ trị: Thường phối hợp với hóa trị. Phương pháp này được áp dụng khi khối u không thể phẫu thuật và chưa có di căn. Nếu khối u đã tiến triển thì có thể dùng xạ trị để giảm nhẹ các ảnh hưởng đến các cơ quan xung quanh. Phương pháp xạ trị có thể gây ra các tác dụng phụ như bỏng, loét, chảy máu…
Hóa trị: Phương pháp này có thể áp dụng trước phẫu thuật để giảm bớt kích thước khối u giúp bệnh nhân đủ điều kiện để phẫu thuật. Hoặc cũng có thể dùng sau phẫu thuật để tiêu diệt các tế bào ung thư còn sót lại.
Chăm sóc giảm nhẹ: Đây là phương pháp giúp người bệnh giảm đau đơn cũng như các tác dụng phụ khi điều trị.
Nội soi: Nếu phát hiện bệnh ở giai đoạn sớm chưa di căn hoặc chưa có hạch người bệnh có thể được cắt bỏ tổn thương bằng nội soi (kỹ thuật cắt tách niêm mạc ESD) dựa trên chỉ định của bác sĩ.
Do vậy người bệnh nên tầm soát sớm ung thư để phát hiện bệnh sớm và can thiệp nội soi, bệnh có thể chữa khỏi hoàn toàn và không cần phải điều trị hóa trị, xạ trị.
Phạm Hường (theo báo SK&ĐS)
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn