Sốt mò ở trẻ em là bệnh nhiễm trùng cấp tính, truyền nhiễm sang người qua ấu trùng mò. Triệu chứng của bệnh dễ nhầm lẫn, gây chẩn đoán nhầm. Nếu không được điều trị đúng cách sớm thì tỷ lệ tử vong của bệnh có thể lên tới 30%.
Sốt mò là bệnh nhiễm trùng cấp tính gây ra bởi Orientia tsutsugamushi - vi khuẩn ký sinh nội bào bắt buộc. Ổ chứa mầm bệnh chủ yếu là mò bị nhiễm Orientia tsutsugamushi. Mò có thể truyền mầm bệnh qua các loài gặm nhấm và thú nhỏ, truyền dọc mầm bệnh qua trứng xuống đời sau hoặc truyền ngẫu nhiên mầm bệnh sang người. Ổ chứa mầm bệnh thứ yếu là các loài gặm nhấm và thú nhỏ như chuột, sóc, chồn, thỏ, các loài chim, gia súc, gia cầm,...
Bệnh truyền sang người qua trung gian là ấu trùng mò. Khi bám vào người, ấu trùng mò thường đốt trong 2 - 3 ngày, sau đó quay trở về mặt đất, trưởng thành và sinh sản ra thế hệ sau. Người bệnh không có khả năng truyền bệnh sốt mò sang người khác. Mò đỏ thường sinh sống ở các bụi cây, bụi cỏ ẩm, nơi có bóng râm hoặc trong hang đá. Con người có thể bị mò nhiễm bệnh đốt khi sinh hoạt hoặc lao động ở khu vực có ổ dịch, đi qua vùng ven sông, ven suối, vào các hang đá, nằm nghỉ trên bãi cỏ,...
Việt Nam nằm trong khu vực lưu hành của sốt mò. Các loài chuột và thú nhỏ - vật chủ ký sinh của ấu trùng mò đỏ - phân bố rộng rãi ở nước ta. Bệnh xuất hiện quanh năm nhưng chủ yếu xảy ra vào mùa mưa, từ tháng 5 - tháng 10 hằng năm, cao điểm là vào các tháng 6 - 7. Mọi lứa tuổi đều có thể cảm nhiễm bệnh. Trong đó, sốt mò ở trẻ em có độ nguy hiểm cao.
Các biểu hiện lâm sàng điển hình của bệnh sốt mò ở trẻ em:
Sau khi đi qua da, vi khuẩn Orientia tsutsugamushi nhân lên tại chỗ, tạo thành nốt sần, tiến triển thành nốt phỏng nước bằng hạt đỗ và vết loét hoại tử có vảy. Từ vết loét, vi khuẩn này sẽ tấn công hệ bạch huyết, gây viêm hạch tại chỗ rồi viêm hạch toàn thân, gây sưng và đau hạch. Khi vi khuẩn Orientia tsutsugamushi phát triển trong cơ thể người sẽ gây tình trạng viêm tắc mạch máu. Lúc này, áp lực thẩm thấu thành mạch tăng, dẫn đến thoát huyết tương, phù tổ chức, tràn dịch cùng một số tai biến khác. Đồng thời, Orientia tsutsugamushi còn đi vào máu, tới cư trú và phát triển trong tế bào nội mạc của các mạch máu nhỏ ở tất cả các cơ quan như gan, phổi, lách, thận, não, tim,... và gây tổn thương các cơ quan này.
Trường hợp nặng, nếu không được phát hiện sớm và điều trị tích cực, bệnh sốt mò ở trẻ em sẽ ngày càng nghiêm trọng và gây ra các biến chứng nguy hiểm như tổn thương đa tạng, bao gồm:
Diễn tiến của bệnh sẽ thay đổi từ nhẹ sang và phức tạp do bị tổn thương nhiều cơ quan. Có khá nhiều bệnh nhi bị sốt mò đã tử vong do không được phát hiện và điều trị kịp thời.
Bên cạnh các biến chứng nguy hiểm, bệnh sốt mò ở trẻ em còn có thời gian phục hồi chậm và thời gian dưỡng bệnh kéo dài 1 - 2 tuần. Ngoài ra, bệnh cũng có tỷ lệ tái phát cao dù đã được điều trị. Tái phát thường xuất hiện sau khi cắt sốt 5 - 14 ngày. Nguyên nhân tái phát là do thuốc được sử dụng chỉ có tác dụng kìm hãm sự phát triển của vi khuẩn, không tiêu diệt được Orientia tsutsugamushi.
Bệnh sốt mò ở trẻ em được đánh giá là nguy hiểm vì việc chẩn đoán gặp nhiều khó khăn. Cụ thể, với những bệnh nhân bị sốt mò có vết thương lở loét, vì không có dấu hiệu đau ngứa và vết loét ở vị trí khó phát hiện nên ít được chú ý. Với 30% bệnh nhân bị ấu trùng mò đỏ không xuất hiện vết lở loét thì việc chẩn đoán bệnh càng khó khăn hơn, đòi hỏi bác sĩ phải có kinh nghiệm, chuyên môn cao và cần sự hỗ trợ từ công nghệ y khoa hiện đại.
Bên cạnh đó, dấu hiệu ban đầu của bệnh sốt mò là sốt cao và có một số triệu chứng không điển hình. Do vậy, công tác chẩn đoán ban đầu tại y tế cơ sở gặp nhiều khó khăn, dễ chẩn đoán nhầm sang các bệnh khác như sốt xuất huyết, sốt rét, sốt phát ban, sốt thương hàn, nhiễm virus cấp, nhiễm xoắn khuẩn vàng da, nhiễm trùng huyết, nhiễm não mô cầu,... Việc chẩn đoán xác định bệnh phải dựa vào vết đốt của mò và các kháng thể đặc hiệu trong máu.
Điều trị sốt mò người lớn chủ yếu là sử dụng kháng sinh đặc hiệu như chloramphenicol, tetracyclin hoặc doxycycline. Với trẻ em và phụ nữ có thai sẽ được chỉ định sử dụng azithromycin hoặc chloramphenicol.
Các loại kháng sinh thường phát huy hiệu quả rất nhanh, giúp bệnh nhân nhanh chóng hết sốt và toàn trạng cải thiện rõ rệt. Tuy nhiên, lưu ý là thuốc chỉ có tác dụng kìm khuẩn, làm giảm tốc độ phát triển của vi khuẩn trong khi chờ đợi cơ thể tạo miễn dịch. Vì vậy, bệnh nhân không được dừng kháng sinh quá sớm, nhất là trong những ngày đầu của sốt để tránh nguy cơ bệnh tái phát.
Mò và ấu trùng mò ưa sống ở khu vực đất xốp, ẩm mát và trong các khe hang, ven bờ sông, suối, nơi có bụi rậm, cây thấp,... Để phòng ngừa bệnh sốt mò ở trẻ em, các bậc phụ huynh cần thực hiện theo những hướng dẫn sau:
Bệnh sốt mò ở trẻ em rất nguy hiểm và tiềm ẩn nguy cơ tử vong cao. Vì vậy, khi trẻ có biểu hiện nghi ngờ mắc bệnh như sốt cao liên tục, phát ban, nổi hạch, có vết lở loét,... phụ huynh nên nhanh chóng đưa trẻ đến trung tâm y tế gần nhất để thăm khám và làm xét nghiệm, tránh tự ý dùng các loại thuốc hạ sốt kéo dài vì có thể khiến bệnh nặng thêm.
Thái Thuý (tổng hợp)
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn